Hội chứng ống cổ tay được James Paget mô tả từ giữa thế kỷ 18. Đây là một rối loạn thần kinh ngoại vi thường gặp nhất, khoảng 3% người trưởng thành ở Mỹ có biểu hiện hội chứng này, cũng tại Mỹ, Hội chứng ống cổ tay là một trong những chấn thương thầm lặng liên quan đến công việc nhiều nhất, khiến hơn 2 triệu người phải khám bác sĩ hàng năm ở Mỹ. Tại Việt Nam, số người mắc bệnh này cũng tương đối cao. Hội chứng ống cổ tay là một trong các nguyên nhân gây tê tay, làm cho người bệnh rất khó chịu, có thể gây teo bàn tay. Bệnh thường gặp ở độ tuổi trên 35, phụ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới.
Về mặt bệnh học, tổn thương trong hội chứng ống cổ tay là tình trạng chèn ép thần kinh giữa do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng đa số được coi là vô căn do không xác định được nguyên nhân cụ thể, chiếm khoảng 70% các trường hợp. Hậu quả của việc chèn ép dây thần kinh giữa gây ra đau, tê, giảm hoặc mất cảm giác vùng da bàn tay thuộc chi phối của thần kinh, nặng hơn có thể gây teo cơ, giảm chức năng và vận động bàn tay. Tình trạng chèn ép thần kinh giữa sẽ dẫn đến 2 sự thay đổi của thần kinh, thứ nhất là sự thay đổi về mặt chức năng dẫn truyền thần kinh, được đánh giá bằng điện sinh lý thần kinh và thứ hai là sự thay đổi về mặt hình thái giải phẫu do chèn ép, được đánh giá bằng các thăm dò hình ảnh như siêu âm, cộng hưởng từ. Như vậy, về mặt logic, để chẩn đoán hội chứng ống cổ tay một cách đầy đủ, bên cạnh thăm khám lâm sàng, phải có thăm khám điện sinh lý thần kinh và chẩn đoán hình ảnh phối hợp.
Điện sinh lý thần kinh được coi là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán hội chứng ống cổ tay tuy nhiên, biến đổi điện sinh lý thần kinh có thể chưa chắc đã là do hội chứng ống cổ tay mà có thể là tổn thương nội tại dây thần kinh do bệnh lý dây thần kinh. Thăm dò hình ảnh bằng cộng hưởng từ khá phức tạp và để đánh giá chính xác sự thay đổi về hình thái của dây thần kinh thì cần những máy có từ lực cao, chi phí tốn kém, không dễ thực hiện thường quy cho tất cả các bệnh nhân trong khi đó, siêu âm thần kinh đơn giản, dễ thực hiện và độ chính xác cao trong nhận định sự thay đổi hình thái của dây thần kinh.
Siêu âm có thể phát hiện tình trạng tăng kích thước thần kinh do chèn ép ở đoạn ống cổ tay dựa trên đo tiết diện cắt ngang của dây thần kinh ở các vị trí khác nhau ở trước, trong và sau ống cổ tay đồng thời có thể phát hiện hình ảnh gián tiếp của tình trạng tăng áp lực trong ống cổ tay bằng đo độ vồng của dây chằng vòng cổ tay (bình thường dây chằng này phẳng, không vồng). Trên các lát cắt dọc theo dây thần kinh, sự thay đổi kích thước của dây thần kinh giữa trước trong và sau ống cổ tay có thể tạo nên những dấu hiệu đặc thù trên siêu âm như dấu hiệu Notch, dấu hiệu Notch đảo ngược , …Bên cạnh đó, siêu âm còn xác định được nguyên nhân chèn ép nếu có như u, nang, viêm bao hoạt dịch gân, …
Như vậy, thăm dò hình ảnh mà cụ thể bằng siêu âm có thể coi là thăm dò chẩn đoán không thể bỏ qua khi thăm khám và chỉ định điều trị hội chứng ống cổ tay. Việc phối hợp thăm khám lâm sàng chặt chẽ, điện sinh lý thần kinh và siêu âm chẩn đoán làm tăng khả năng chẩn đoán chính xác tổn thương, chẩn đoán loại trừ được các tổn thương cần phân biệt giúp cho bác sỹ có kế hoạch điều trị chính xác và hiệu quả hơn.
TS Trần Trung Dũng (from USA)